XtGem Forum catalog
Mới nhất | Chưa full
Xem sao hạn 2014. New!
Rất lâu sau đó tôi mới biết, trên thế giới này nhất định có 1 người, dù thời gian người ấy thuộc về bạn hoàn toàn ngắn ngủi, nhưng khi muốn quên đi, bạn phải dùng đến thời gian là cả cuộc đời...

Tìm kiếm trong trang:
>> Mẹo tìm kiếm
Bạn đang ở:
Trang Chủ->Truyện Dài->Truyện dài khác-> Dòng sông oan nghiệt
Dòng sông oan nghiệt Trang 2
Đang đọc khoảng
15000 ký tự / trang

Nhập trang (1~28):

Đầu 2/28 3 >> Cuối

g Hữu Vi đương nhiên chống bạch quỷ thực dân nhưng cũng muốn lật đổ nhà Thanh, coi đó là một trở ngại cho việc canh tân và dân chủ hoá đất nước họ. Các nhà nho Việt Nam chỉ lo bảo vệ vương triều, theo kiểu chúa Trịnh bảo vệ vua Lê vì quyền lợi của dòng họ mình, mà không biết rằng canh tân là cách bảo vệ nhân dân, nhà vua và chính mình tốt nhất như người Nhật đã làm. Nhưng nói cho cùng – và điều này rất tệ hại – họ sẽ bảo vệ tư tưởng bảo thủ lạc hậu của chính họ, một thứ Tống nho hủ lậu, một thứ Lão giáo huyền hoặc và một thứ Phật giáo tiêu cực và điều đáng sợ hơn là họ sẽ hy sinh xương máu của nhân dân để bảo vệ những thứ tư tưởng đó hoặc một phả hệ tương tự. Lúc đó qua báo chí tiếng Tây, thầy Trình vừa biết được phong trào cộng sản ở nước Nga do Lénine lãnh đạo đang chuẩn bị một cuộc khởi loạn để lật đổ Nga hoàng.


Thầy Trình coi việc ở lại sông Nghiệt để dạy học là một thứ thoái ẩn sớm dù chưa tới tuổi già, đứng ra bên ngoài vòng tranh chấp thị phi. Nhưng từ khi ông ta về đây dạy học có thêm những người khác cũng đến cất nhà khai hoang. Làng Rí bắt đầu hình thành từ đó. Trong lúc Lê Đối vẫn tiếp tục mở rộng ruộng đất của mình gần ba mươi mẫu, chủ yếu bên kia sông Nghiệt vì bên ấy đất tốt hơn.


Một buổi chiều thu trời nhiều mây và không nắng hai người đàn ông trung niên cùng thong thả đi ra gò đất cùi chỏ cách nhà họ một quãng sau một khúc đường cong: nhân một ngày rỗi việc, phú hộ Lê Đối dẫn Thầy Trình đi tham quan một vòng để coi phong thủy. Lê Đối đã tìm hiểu lịch sử vùng đất này qua lời kể lại của một ngư dân và bây giờ ông có thể thuật lại cho vị gia sư của mình. Trước hết họ đến một ngôi mộ hoang ở phía Tây của gò đất, bia mộ chỉ ghi vỏn vẹn có mấy chữ “An táng ngày x, tháng y, năm 1880: dâm phụ chi mộ. Theo các ngư dân già cả kể lại đó là thứ thiếp của quan tri huyện Dương Lý tên là Châu Linh thông dâm và bị bắt quả tang với người bạn làm tuần vũ một tỉnh mà thân sinh đã từng nuôi dưỡng Dương Lý ăn học thành tài. Tri huyện cho người đóng bè thả trôi sông sau khi đã cắt đứt gân máu ở một cổ tay, tri huyện ấy còn nói, “Thà mất thiếp còn hơn để lỗi nghĩa bằng hữu cùng bạn là ân nhân của ta.” Vả lại người bạn này đã đính hôn với em gái tri huyện là Dương Liễu. Dù vậy tri huyện cũng cho lập một đàn cầu siêu vong hồn người đã chết; ít lâu sau tri huyện tìm một cô gái khác ở Hội An về làm thiếp thay cho Châu Linh bị buộc tội là dâm phụ.


Khi bè trôi tới khúc quanh sông này, máu vẫn còn chảy đỏ cả dòng sông, vướng vào một nơi đặt vó của xóm chài bên kia sông. Các ngư dân vớt lên thấy một người phụ nữ bị xẻo hai tai và cắt đứt mạch máu đã chết liền quấn chiếu chôn trên gò đồng thời có mấy chữ để ghi nhớ. Có bà cụ trong làng chài con của một thầy lang đã đi xem xác chết còn nói lúc chết Châu Linh đã mang thai ba tháng. Thầy Trình nghe kể xong bùi ngùi khôn xiết. Quả là hồng nhan bạc phận. Sau đó Lê Đối dẫn Thầy Trình đến một ngôi mộ vô chủ phía tây, bia mộ đề “An táng ngày x tháng y năm 1890: tửu nhân chi mộ.” Đây cũng là một người chết trước khi bị bỏ vào rọ cho trôi sông, người ta đã cho người chết uống rượu đến nhão người, đánh vào đầu chỗ tử huyệt và đặt vào rọ bên cạnh người chết một vỏ chai rượu tây. Xác chết cũng được ngư dân vớt lên chôn cất nơi này.


Nghe xong Thầy Trình mồ hôi vã ra như tắm, ngồi bệt xuống một tảng đá thở dốc. Sự việc này ông có biết. Người chết chính là con trai một nhà nho văn thân bạn ông. Hôm ấy sau khi đoàn người gồm một số Văn thân trong đó có Thầy Trình và dân trong một làng người lương kéo nhau đốt phá giết chóc một làng công giáo, đúng hơn một họ lẻ với khoảng ba mươi nóc nhà. Làng này bị đốt cháy hầu hết, những kẻ chậm chân bị sát hại. Rồi đoàn người tấn công và bách hại giáo dân kéo nhau ra về “thắng lợi”. Thằng Tuấn Cải con trai bạn ông nhặt được một chai rượu Tây trong một căn nhà bị đốt.


Bởi tuổi trẻ nông nổi cạn suy, ngày hôm sau nó đem chai rượu ra mời bạn bè trong xóm cùng đánh chén để mừng đã xoá sổ một làng công giáo bằng ngọn lửa căm hờn. Việc này đến tai trưởng lão văn thân trong làng cũng là bác ruột của Tuấn Cải. Người bác liền mở phiên họp để buộc tội Cải và đám thanh niên đã uống phải “rượu quỷ” của bọn người làm bại hoại gia phong và phép nước. Các văn thân trong làng còn cho rằng rượu trong chai đó được cất bằng máu của trẻ sơ sinh, nên nhân danh luật vua phép nước và phép nhà kết tội Cải bị bỏ rọ trôi sông, các thanh niên khác bị gia trưởng đánh năm mươi roi bỏ đói ba ngày để làm gương và duy trì khuôn phép. Lúc đó Thầy Trình cũng có mặt trong buổi họp nhưng trước sau ông làm thinh không nói. Bây giờ ông mới thấy mình hèn không dám lên tiếng bênh vực nạn nhân của một đám cuồng nho.


Trình ơi, mi hèn quá! Kiểu này sẽ có thêm nhiều người phải bị hy sinh oan uổng để chứng minh một nhân sinh quan hoặc một ý thức hệ là đúng trong khi chúng chưa một ngày đem lại hạnh phúc cho người dân. Cùng lắm nó chỉ vuốt ve tự ái của một tập thể đầu óc hẹp hòi. Trình ơi, mi càng hèn hơn khi mi tin vào những gì bọn cuồng nho trao đổi với nhau (như thánh phán) những lúc nhàn rỗi. Nào là bọn Bạch Quỷ không văn minh gì cả mà chỉ là bọn mọi rợ, nào là chỉ nước Trung Hoa là văn minh và ta là học trò giỏi của Thiên triều. Này nhé chính Trung Hoa đã tìm ra la bàn, nghề làm giấy, nghề in ấn, thuốc súng và cũng đã phát minh ra y thuật, đã chế tạo được máy hơi nước, máy nổ, máy bay. Chẳng phải phép đằng vân của Tôn Ngộ Không là đi một máy bay vô hình sao (?!) Còn bảy mươi mốt phép khác nữa … Chỉ vì không muốn lòng người hoá thành cơ tâm, thành máy móc nên chế xong rồi bỏ. Nay bọn bạch quỷ lấy những phát minh ấy làm những điều bại hoại, chắc chắn Trung Hoa sẽ khai thác lại những bí truyền và một ngày không xa sẽ đánh đuổi bọn bạch quỷ và bắt thế giới phải khuất phục. Khi ấy thiên hạ này sẽ chỉ biết một điều là “nhất Tàu, nhì An-nam” mà thôi.


Lúc đó Lê Đối đến gần hỏi gia sư trẻ tuổi:

“Thầy trúng gió à ?”

“Không, nhưng tôi bỗng thấy trong người không khoẻ… hay ta về thôi.”

“Thầy cố một tí đi, ta chỉ còn một ‘kỳ quan’ sau cùng, xem xong hãy về.”

“Vâng nếu vậy thì tôi cố được.” Thầy Trình gượng cười nói.

Trong lúc tiếp tục đi trước, Lê Đối còn nói người dân gọi tắt hai ngôi mộ đó là Mộ dâm và Mộ rọ. Rồi họ đến một tảng đá to bằng một chiếc thuyền to lật úp, hai đầu túm lại không đều nhau, giữa có một đường nứt mấy phân chia tảng đá ra làm hai phần bằng nhau và từ lâu người dân làng chài gọi là “Đá Tôn Lưu trảm thạch”ám chỉ việc Lưu Bị qua Giang Tả cầu hôn Tôn Phu nhân bị người anh là Tôn Quyền thách chém đá rêu phong trong vườn ngự uyển. Lúc đó Lê Đối mỉm cười nói:

“Có mấy ông lão làng chài còn chú thích dài dòng như sau: mấy bà già trong làng này, người nào cũng có một đá Tôn-Lưu trảm thạch thu nhỏ khô khốc ở giữa háng, đi đâu cũng mang theo…”


Trịnh gia sư vừa méo miệng cười vừa ngắm nghía tảng đá cô đơn đậm bóng trong nắng chiều đã nhạt, coi hướng của nó rồi thở dài chán nản nói với Lê Đối:

“Xem ra những ‘di tích’ này đều xấu cả, gái thì dâm bôn, trai thì rượu chè, người phụ nữ lớn tuổi thì không đoan chính sẽ di hại vào tâm thức tiềm ẩn của người dân. Tôi sẽ tìm cách sửa chữa những ảnh hưởng của nó, lúc đó tôi sẽ gặp ông sau. Bây giờ tôi xin phép ông về trước.”


Đi được nửa quãng đường về, Thầy Trình bỗng nhiên cảm thấy lòng nặng một nỗi buồn, ông ngồi xuống một tảng đá mồ côi to bằng một cái phản nhỏ và suy nghĩ. Ông còn nhớ vẻ mặt vừa kinh hoàng vừa ngơ ngác của Tuấn Cải trước phán quyết tàn nhẫn xử tử nó. Nó không hiểu tại sao bỗng chốc nó trở thành nạn nhân của mối căm thù vô lý giữa hai cộng đồng lương-giáo. Hình như sự thù hận, ganh ghét là “di căn” để lại cho dân từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Thầy Trình có mặt lúc ấy cũng cảm nhận một nỗi sợ hãi trước việc hy sinh một con người cho một xác tín không chắc đã đúng vì đó chỉ là xác tín của một nhóm nhỏ các nhà nho đang theo đòi cử nghiệp. Chỉ cần họ suy nghĩ khác đi, ra khỏi cái khuôn phép cứng ngắt vụ lợi của tập thể họ hẳn sự việc phải khác.


Thầy còn nhớ những lời vị trưởng lão ấy nói để kết thúc buổi luận tội và nhường chỗ cho ban thi hành án làm việc:

“Phải làm thế thôi dù phán quyết này có dữ dội và khắc nghiệt. Tiền nhân ta cũng đã làm thế trong một nghìn năm bị phương Bắc đô hộ. Nên chi sau một nghìn năm “Ta vẫn là Ta” như trước đó một nghìn năm nghĩa là vẫn giữ bản sắc dân tộc của mình.”

Trên đường về, Thầy Trình đã khúm núm đến gần hỏi vị trưởng lão:

“Vậy đạo nho mà Sĩ Nhiếp dạy cho dân ta là của người Tàu hay của người nước Nam?”

Vị trưởng lão đáp lại một điều sai bét mà ông ta tin chắc là chân lý:

“Của người nước Nam, nên Nho giáo phải gọi là Việt Nho. Khổng tử quê ở Sơn Đông nhưng gốc tích ở miền Nam. Vì thế nên tôi mới nói “Ta vẫn là ta” thế mà chú không hiểu .”

“Dạ em còn kém cõi lắm.” Thầy Trình nói rồi rút lui, lắc đầu ngao ngán.


Sau cùng thằng Tuấn Cải cũng cúi đầu chịu chết, nó không nói được lời nào như một người chấp nhận số phận nghiệt ngã dành sẵn cho mình mà không hiểu tại sao. Sự chấp nhận trong sợ hãi ấy chẳng phải là “tập quán” đã có từ bao đời nay của đám lê dân vô tội lọt vào giữa cuộc chiến tranh cát cứ của chúa Trịnh và chúa Nguyễn hay sao? Họ sinh ra trong khó nghèo, sống sợ hãi để chết sợ hãi cho tham vọng của hai dòng họ. Khái niệm dân tộc đã bị hai dòng họ ấy thay thế bởi khái niệm con dân. Và nếu đã là con và bị cha xử chết, họ phải chết để được là con dân hiếu thảo đối với hai dòng họ đó. Rồi đây nếu có một dòng họ khác ví dụ như họ Cáo, họ Mao, họ Xít… làm mắt họ mù loà và bắt họ phải chết họ cũng sẵn sàng chết với lời hô to, “ Cáo thánh thượng vạn tuế !!!” hoặc “Mao/Xít thánh thượng vạn tuế!!!”


Thầy Trình tưởng mình về ngôi làng xa xôi hẻo lánh này để tránh một nỗi dày vò trong tâm trí nhưng giờ đây lại phải đối mặt với ngôi mộ hoang của Tuấn Cải, nghĩa là đối mặt với nỗi dày vò mà ông đã trốn tránh. Đã lâu rồi ông không còn mượn rượu giải sầu nhưng lúc này ông nghĩ mình phải vào quán bà Tư Phi uống cho thật say. Ông lận lưng quần lấy ra một đồng xu trong khi đứng dậy khỏi tảng đá. Đồng xu tuột khỏi tay ông lăn dài trên mặt đường đất như một cái bánh xe nhỏ xíu, ông nhìn theo cái bóng mờ của nó đến lúc có một bàn chân của khách bộ hành nào đó giẫm lên và ngừng lại; bàn chân trần to mỹ miều của người khách lạ không dính một hạt bụi đường giữ chặt đồng xu nằm yên bên dưới. Trịnh gia sư kêu lên với khách lạ:

“Đồng xu kẽm của tôi dưới chân ông, xin ông trả lại.”

Người lạ cúi xuống lấy và đưa cho Trịnh gia sư một đồng tiền, ông này nói:

“Không phải đồng này…Đây là một đồng tiền vàng mà.”

“Không còn đồng nào cả… ông cứ cầm lấy đồng tiền này đổi ra đồng xu kẽm, lấy phần của ông rồi còn thừa bao nhiêu ông bố thí cho người nghèo và người bệnh, vả lại tôi không muốn ông dùng tiền này đi uống rượu để giải buồn dù nỗi buồn của ông có vẻ chính đáng.”


Lúc đó Trịnh gia sư nhìn kỹ người lạ, một thanh niên tóc xoả dợn sóng, từng sợi tóc óng ả như sợi kim tuyến. Người lạ to đẹp mắt sáng như sao, mũi và miệng thanh tú, ăn mặc gọn gàng với cái thắt lưng bằng da dê to bản, quần quấn xà cạp nhưng không mang giầy, dép. Thầy Trình ngạc nhiên hỏi:

“Ông là ai lại biết tâm s


Đầu 2/28 3 >> Cuối

Nhập trang (1~28):
Chia sẻ lên facebook
Bình luận qua facebook
KPAH 154 - Game gMO Ấn Tượng Nhất Việt Nam
Cốt truyện Việt, và đắm mình trong tích xưa, cùng tham gia các trận đấu lịch sử....
Ngũ Đế 154 - Xứng Danh Anh Hùng
Hãy hóa thân cao thủ võ lâm đồng đạo môn phái nhất thống thiên hạ, game đỉnh nhất 2013....
Mobi Army HD 238 - Anh Tài Tựa Gunbound
Game bắn súng đối kháng theo lượt, quen thuộc, thuộc dòng kinh điển, ấn tượng với Gamer....
Vua Bài HD 260 - Nhập Vai Thần Bài
 20 mini game Bài, thỏa sức vận may rủi, khuyến mại chơi Miễn phí! ...
Avatar 250 HD - MXH Teen Đặc Biệt Ấn Tượng
MXH nhộn nhịp, vui vẻ, kết bạn, nông trại, câu cá, chơi mini game, thể hiện cá tính của bạn....
***Dành cho các wapmaster
U-ON